Xã hội Đế_quốc_La_Mã

Xem thêm thông tin: Xã hội La Mã cổ đại
Một bữa tiệc nhiều thế hệ được miêu tả trên một bức tranh tường ở Pompeii (thế kỷ thứ 1 sau công nguyên)Bữa tiệc của Seuso tại Lacus Pelso (Hồ Balaton)

Đế quốc La Mã có sự đa dạng văn hóa đặc biệt, cùng với "một khả năng gắn kết đáng kinh ngạc hơn nữa" để tạo ra một ý thức về bản sắc chung trong khi lại chứa đựng rất nhiều các dân tộc khác nhau nằm bên trong hệ thống chính trị của nó suốt một khoảng thời gian dài.[105] Người La Mã đã chú ý đến việc tạo ra các công trình công cộng và những không gian thoáng đãng chung dành cho tất cả mọi người dân như là các khu chợ, đấu trường đài vòng, trường đua ngựa và các nhà tắm, điều này giúp nuôi dưỡng ý thức về "lối sống La Mã".[106]

Xã hội La Mã cũng có nhiều hệ thống phân cấp xã hội chồng chéo mà những khái niệm hiện đại về "giai cấp" trong tiếng Anh có thể không đại diện một cách chính xác cho nó.[107] Hai thập kỷ của những cuộc nội chiến mà từ đó đã giúp cho Augustus nổi lên và trở thành nhà cai trị duy nhất đã khiến cho xã hội truyền thống ở Rome rơi vào tình trạng hỗn loạn và biến động,[108] nhưng nó lại không ảnh hưởng một cách trực tiếp tới sự phân bố giàu nghèo và quyền lực xã hội. Từ góc nhìn của các tầng lớp dưới, nó đơn giản chỉ là thêm vào kim tự tháp xã hội một đỉnh chóp.[109] Những mối quan hệ cá nhân như sự bảo trợ, tình bạn (Amicitia), gia đình, hôn nhân đã tiếp tục ảnh hưởng đến các hoạt động chính trị và chính quyền như dưới thời Cộng hòa.[110] Tuy nhiên, vào triều đại của Nero, việc tìm thấy một cựu nô lệ lại giàu có hơn một công dân tự do, hoặc một kỵ sĩ có nhiều quyền lực hơn một nguyên lão lại không phải là một điều bất thường.[111]

Sự mập mờ chính xác hơn là sự rườm rà của hệ thống phân cấp xã hội quá cứng nhắc dưới thời cộng hòa đã dẫn đến sự gia tăng di động xã hội dưới thời đế quốc,[112][113] cả theo chiều hướng đi lên và đi xuống, tới một mức độ vượt xa tất cả những xã hội cổ đại đã được ghi chép rõ ràng khác.[114] Phụ nữ, nô lệ được giải phóng, và nô lệ có cơ hội để có được và sử dụng ảnh hưởng theo những cách mà trước kia họ ít có khả năng đạt được.[115] Đời sống xã hội trong đế quốc, đặc biệt là đối với những người có tiềm lực cá nhân giới hạn, đã được thúc đẩy hơn nữa bởi thông qua sự phát triển của các hiệp hội tự nguyệnhội anh em (collegiasodalitates) được hình thành cho nhiều mục đích khác nhau: các hiệp hội nghề nghiệp và thương mại, các nhóm cựu chiến binh, những hội tương tế tôn giáo, các hội ăn uống và nhậu nhẹt,[116] những đoàn biểu diễn nghệ thuật,[117]các hội mai táng.[118]

Một công dân của Ai Cập dưới thời La Mã (chân dung xác ướp Fayum)

Địa vị pháp lý

Theo luật gia Gaius, sự khác biệt chủ yếu trong "luật pháp nhân" của người La Mã đó là tất cả mọi người sẽ là người tự do (Liberi) hoặc là nô lệ (servi).[119][120] Tư cách pháp lý của người tự do hơn nữa có thể được xác định bằng quyền công dân của họ. Hầu hết người dân đều giữ những quyền hạn chế (chẳng hạn như ius Latinum,"quyền của người Latin"), nhưng có quyền được bảo vệ về mặt pháp luật và các đặc quyền không dành cho những người không có quyền công dân. Người tự do không được coi là công dân nhưng khi sinh sống bên trong thế giới La Mã thì giữ địa vị là peregrini, không phải người La Mã.[121] Năm 212 CN, bằng sắc lệnh được biết đến với tên gọi là Constitutio Antoniniana, hoàng đế Caracalla đã mở rộng quyền công dân cho tất cả các cư dân tự do của đế quốc. Chủ nghĩa quân bình hợp pháp này đòi hỏi một sự sửa đổi sâu rộng đối với những pháp luật hiện hành vốn đã phân chia giữa công dân và những người không phải công dân.[122]

Phụ nữ

Những người phụ nữ La Mã tự do được coi là công dân từ thời nhà nước Cộng hoà cho tới thời Đế quốc, nhưng họ không có quyền bỏ phiếu hay nắm giữ chức vụ chính trị, hoặc phục vụ trong quân đội. Đứa trẻ sinh ra từ người mẹ có quyền công dân thì cũng sẽ có được điều này, thể hiện bằng cách nói ex duobus civibus Romanis natos ("trẻ em sinh ra bởi hai công dân La Mã").[n 9] Một người phụ nữ La Mã giữ tên họ của gia đình mình (nomen) trong suốt cuộc đời. Con cái thường lấy theo tên của người cha, nhưng vào thời kì đế quốc, đôi khi lại sử dụng một phần tên của người mẹ cho tên của họ, hoặc thậm chí sử dụng nó để thay thế.[123]

Ảnh trái: Một bức tranh tường La Mã về một thiếu nữ tóc vàng hoe đang đọc một văn bản, Phong cách Pompeii thứ Tư (60–79 AD), Pompeii, Ý
Ảnh phải: Bức tượng đồng (thế kỷ 1 CN ) của một người phụ nữ đang đọc sách, dựa theo bản gốc thời kỳ Hy Lạp hóa

Hình thái hôn nhân cổ xưa manus trong đó người phụ nữ phải lệ thuộc vào uy quyền của người chồng đã được bãi bỏ một cách rộng khắp vào thời kì đế quốc, và một người phụ nữ đã lập gia đình có quyền giữ lại quyền sở hữu với bất kỳ của hồi môn nào mà họ sở hữu. Về mặt pháp lý, họ vẫn nằm dưới thẩm quyền pháp lý của người cha, bất kể là họ đã đi lấy chồng đi chăng nữa và chỉ khi nào người cha qua đời, họ mới được tự do về mặt pháp lý.[124] Sự sắp đặt này là một trong những yếu tố về mức độ độc lập của phụ nữ La Mã được hưởng khi so sánh với những người phụ nữ của những nền văn hóa cổ đại khác và cho tới tận thời kỳ hiện đại:[125][126] mặc dù họ phải trả lời cha mình về những vấn đề pháp lý, họ không bị ràng buộc bởi sự giám sát trực triếp của người cha trong đời sống hàng ngày,[127] và người chồng không có quyền lực pháp lý đối với họ.[128] Mặc dù đối với những người chỉ kết hôn một lần duy nhất, sẽ là một niềm tự hào khi là "một đàn ông -một phụ nữ" (univira), có rất ít sự kỳ thị đối với việc ly dị, hay là nhanh chóng tái hôn sau khi mất một người chồng do qua đời hoặc ly hôn.[129]

Người con gái có quyền thừa kế bình đẳng với người con trai nếu người cha của họ qua đời mà không để lại một di chúc.[130][131][132] Một người mẹ La Mã của quyền sở hữu tài sản và nhường lại nó khi thấy phù hợp, bao gồm thiết lập các điều khoản trong di chúc của mình, điều này khiến họ có ảnh hưởng rất lớn với những người con trai của họ ngay cả khi những người con trai của họ đã trưởng thành.[133]

Là một phần trong cải cách của Augustus nhằm khôi phục lại đạo đức truyền thống và trật tự xã hội, luật đạo đức đã cố gắng để chỉnh đốn lại đạo đức của đàn ông và phụ nữ như là một biện pháp để thúc đẩy "các giá trị gia đình". Dưới thời cộng hòa Tội ngoại tình là một chuyện gia đình riêng tư, nó đã bị hình sự hóa[134] và được định nghĩa chung là một hành vi tình dục bất chính (stuprum) mà diễn ra giữa một công dân nam và một phụ nữ có chồng, hoặc giữa một người phụ nữ có chồng với bất cứ nam giới nào không phải là chồng của họ.[n 10] Nhà nước đã khuyến khích việc sinh con: một người phụ nữ nếu sinh được 3 người con thì sẽ được ban tặng những huy chương mang tính tượng trưng và quyền tự do về mặt pháp lý lớn hơn (ius trium liberorum).

Bởi vì họ có tư cách pháp lý là công dân và mức độ tự do nhất định, phụ nữ có thể sở hữu tài sản, ký kết các hợp đồng, và tham gia vào việc kinh doanh,[135][136] bao gồm vận tải bằng tàu thủy, sản xuất, và cho vay. Những bản khắc trên khắp đế quốc tôn vinh phụ nữ như là người bảo trợ trong việc tài trợ cho các công trình công cộng, đây là dấu hiệu cho thấy họ có thể đã có được và tùy ý sử dụng sự giàu có đáng kể này; chẳng hạn như công trình Khải hoàn môn của nhà Sergii được Salvia Postuma tài trợ, bà là thành viên của gia tộc được vinh danh này, và công trình xây dựng lớn nhất tại khu chợ ở Pompeii được Eumachia tài trợ, bà ta là một nữ tư tế của nữ thần Venus.[137]

Nô lệ và pháp luật

Dưới triều đại của Augustus, có đến 35% người dân ở Ý là nô lệ,[138] điều này khiến cho La Mã trở thành một trong năm "xã hội nô lệ" trong lịch sử, trong đó những người nô lệ chiếm ít nhất một phần năm dân số và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế.[139] Chế độ nô lệ là một chế độ phức tạp không những chống đỡ cấu trúc xã hội truyền thống của người La Mã mà còn đóng vai trò hữu ích trong nền kinh tế.[140] Trong môi trường đô thị, nô lệ có thể là các chuyên gia như thầy giáo, thầy thuốc, đầu bếp, người giữ sổ sách, ngoài ra thì phần lớn các nô lệ đã qua huấn luyện hoặc không có kỹ năng thì lao động ở trong các hộ gia đình hoặc các công xưởng. Các ngành nông nghiệp và công nghiệp, chẳng hạn như xay xát và khai thác mỏ, đều dựa trên việc khai thác sức lao động của nô lệ. Bên ngoài đất Ý, nô lệ chiếm trung bình khoảng từ 10 đến 20 phần trăm dân số, ở tỉnh Ai Cập thuộc La Mã thì lại thưa thớt nhưng tập trung nhiều hơn ở một số vùng của Hy Lạp. Việc mở rộng quyền sở hữu đất canh tác và các ngành công nghiệp của người La Mã sẽ bị ảnh hưởng từ thực tiễn của chế độ nô lệ ở các tỉnh.[141][142] Mặc dù chế độ nô lệ thường được đánh giá là đang trong quá trình suy tàn vào thế kỷ thứ 3 và thứ 4, nó vẫn là một phần không thể thiếu của xã hội La Mã cho tới tận thế kỷ thứ 5. Chế độ nô lệ đã chấm dứt dần dần vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7 cùng với sự suy tàn của các trung tâm đô thị ở phía Tây và sự tan rã của nền kinh tế đế quốc phức tạp mà đã tạo ra nhu cầu cho nó.[143]

Nô lệ giữ tấm bảng viết cho người chủ nhân (phù điêu đến từ một cỗ quan tài thể kỷ thứ 4)

Pháp luật liên quan đến chế độ nô lệ là "cực kỳ phức tạp".[144] Theo luật La Mã, nô lệ được coi là tài sản và không có địa vị pháp lý. Họ có thể phải chịu các hình thức nhục hình vốn không thường được áp dụng đối với công dân, bóc lột tình dục, tra tấn, và hành quyết nô lệ mà không cần xét xử. Một nô lệ bị cưỡng bức thì không phải là một vấn đề quan trọng trong pháp luật bởi lẽ tội hiếp dâm chỉ có thể bị tống giam nếu đó là người tự do; Người chủ nô có quyền khởi tố người cưỡng bức nô lệ của mình vì đã làm thiệt hại tài sản theo Luật Aquilia[145][146] Nô lệ có hình thức hôn nhân không được pháp luật công nhận được gọi là conubium, nhưng đôi khi hôn nhân của họ được công nhận, và nếu cả hai được trả tự do thì họ có thể kết hôn.[147] Sau những cuộc chiến tranh nô lệ dưới thời Cộng hòa, pháp luật dưới triều đại của Augustus và những người kế vị ông đã cho thấy một chiều hướng quan tâm đến việc kiểm soát các mối đe dọa từ các cuộc khởi nghĩa thông qua việc hạn chế kích thước của các nhóm lao động, và việc săn lùng nô lệ bỏ trốn.[148]

Ban đầu, nô lệ sẽ được mua lại từ quân đội bởi các đại lý bán buôn, sau đó họ sẽ được đem bày bán công khai tại các khu chợ hoặc thậm chí là các cửa hàng. Nô lệ bị giao bán tại các gian hàng bị buộc phải đứng trong tình trạng khỏa thân hoàn toàn, và trên cổ mỗi người nô lệ đêu đeo một tấm thẻ cung cấp các thông tin về nguồn gốc, sức khỏe, tính cách, trí thông minh, giáo dục và các thông tin khác của họ cho người mua. Thường thì người ta sẽ ưa chuộng các nô lệ khỏe mạnh, và ưu tiên nô lệ đàn ông hơn. Nô lệ trẻ em có giá thấp hơn nô lệ người lớn. Nô lệ có thể được đem hoàn trả lại sau sáu tháng nếu như họ có những khuyết điểm không được biểu hiện ở quầy giao bán, hoặc nếu như họ làm cho người chủ thua lỗ. Giao dịch nô lệ được giám sát bởi các quan chức tài chính La Mã được gọi là Quaestor (quan coi quốc khố).

Về mặt pháp luật, một nô lệ không thể sở hữu tài sản,[149] nhưng nếu một nô lệ quản lý việc kinh doanh, người này có thể được trao cho một tài khoản cá nhân hoặc quỹ (peculium) mà có thể sử dụng như thể nó là của riêng mình. Các điều khoản của tài khoản này khác nhau tùy thuộc vào mức độ tin tưởng và hợp tác giữa người chủ nô với nô lệ: một nô lệ với năng khiếu kinh doanh có thể được cho phép dành nhiều thời gian cho việc tạo ra lợi nhuận, và có thể được phép thừa kế peculium, người này còn quản lý các nô lệ khác trong gia đình của chủ nô.[150] Trong một hộ gia đình hoặc nơi làm việc, một hệ thống cấp bậc giữa các nô lệ có thể tồn tại, với một nô lệ có đóng vai trò là ông chủ của nô lệ khác.[151]

Theo thời gian, nô lệ đã dần nhận được sự bảo vệ của pháp luật, trong đó họ có quyền nộp đơn khiếu nại chống lại người chủ của họ. Một dự luật buôn bán có thể chứa một điều khoản quy định rằng các nô lệ không được phép sử dụng cho nạn mại dâm, tuy rằng gái mại dâm ở La Mã cổ đại thường là nô lệ.[152] Với việc bùng phát buôn bán nô lệ thái giám trong những năm cuối thế kỷ 1 CN đã thúc đẩy đạo luật trong đó cấm thiến một nô lệ trái với ý muốn của họ "vì ham muốn hoặc lợi ích."[153][154] Hoàng đế Claudius đã tuyên bố rằng nếu một nô lệ bị chủ nhân bỏ rơi, anh ta sẽ trở thành người tự do. Nero đã trao cho nô lệ quyền khiếu nại chống lại chủ nhân của họ tại một tòa án. Và dưới thời Antoninus Pius, một chủ nhân giết một nô lệ mà không có lý do chính đáng có thể bị xét xử vì tội giết người. Từ giữa đến cuối thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, việc nô lệ phàn nàn về sự đối xử tàn nhẫn hoặc không công bằng của chủ sở hữu đối với họ đã trở nên rất phổ biến. Vì hầu hết nô lệ La Mã có thể dễ dàng trà trộn vào dân chúng nếu họ trốn thoát, các chủ sở hữu thường ngăn cản nô lệ bỏ trốn bằng cách đặt xăm lên trán họ những dòng chữ như "Tôi là một kẻ trốn chạy!" hoặc "Đóng thuế" nếu nô lệ thuộc sở hữu của nhà nước La Mã. Vì lý do này, nô lệ thường đeo những tấm băng đô để che đi hình xăm của họ khi trốn thoát.

Lễ hội Saturnalia, được tổ chức vào ngày 17 tháng 12 theo Lịch Julian, là một dịp hiếm hoi mà người nô lệ có thể tạm thời được hưởng những quyền như người tự do. Vào dịp lễ này, nô lệ sẽ được thưởng thức một bữa tiệc thịnh soạn, được đánh bạc, thậm chí được quyền chỉ trích hoặc tỏ ra thiếu tôn trọng đối với chủ nhân mà không bị trừng phạt. Một số nguồn còn đề cập đến việc người chủ và nô lệ đã ăn tối cùng nhau, hay người chủ đã phục vụ bữa ăn cho các nô lệ của mình như một cách để tôn vinh họ.

Chế độ nô lệ của La Mã không dựa trên chủng tộc.[155][156] Nô lệ được đưa đến từ khắp các vùng đất ở châu Âu và Địa Trung Hải, bao gồm Gaul, Hispania, Đức, Britannia, khu vực Balkan, Hy Lạp... Nói chung, nô lệ ở Ý là những người Ý bản xứ,[157] cùng với nô lệ ngoại quốc sinh ra ở bên ngoài đất Ý chiếm thiểu số (bao gồm cả nô lệ và nô lệ được trả tự do) ước tính khoảng 5% về tổng số ở kinh đô vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là nơi mà số lượng của họ là lớn nhất. Những người đến từ bên ngoài đất Ý chủ yếu là người gốc Hy Lạp, trong khi người Do Thái chưa bao giờ được đồng hóa hoàn toàn vào xã hội La Mã. Những nô lệ này (đặc biệt là người ngoại quốc) có tỷ lệ tử vong cao hơn và tỷ lệ sinh thấp hơn những nô lệ bản địa, và thậm chí đôi khi họ dễ bị trục xuất hàng loạt.[158] Tuổi đời trung bình được ghi lại vào thời điểm qua đời của nô lệ ở Rome là cực kỳ thấp: 17 tuổi rưỡi (17.2 cho nam; 17.9 cho nữ).[159]

Trong giai đoạn bành trướng dưới thời Cộng hòa khi chế độ nô lệ đã trở nên phổ biến, tù nhân chiến tranh là một nguồn cung cấp nô lệ chính và cuộc chinh phục Hy Lạp đã đem về Rome thêm một số nô lệ có tay nghề cao và cả nô lệ có học thức. Nô lệ cũng được buôn bán trong các khu chợ, và đôi khi được bán bởi những tên cướp biển. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và việc tự bán mình làm nô lệ của những người nghèo là những nguồn khác.[160] Ngược lại, Vernae, là những nô lệ "cây nhà lá vườn" được sinh ra từ những nữ nộ lệ trong các hộ gia đình ở thành thị hoặc trong một điền trang đồng quê hoặc nông trại. Mặc dù họ không có tư cách pháp lý đặc biệt, nếu như người chủ ngược đãi hoặc không nuôi nấng vernae của mình thì sẽ phải đối mặt với sự chê bai của xã hội, bởi vì họ được coi là một phần trong familia của người này, hộ gia đình, và trong một số trường hợp có thể thực sự là con cái của những đàn ông tự do trong gia đình.[161][162]

Những nô lệ có tay nghề cao hoặc học thức có thể tích lũy được một peculium đủ lớn để mua lại sự tự do của họ, hoặc được chủ nô giải phóng. Việc giải phóng nô lệ đã trở nên đủ thường xuyên tới mức vào năm 2 trước Công nguyên một đạo luật (Lex Fufia Caninia) đã được ban hành trong đó giới hạn số lượng nô lệ mà một chủ nô được cho phép giải phóng trong di chúc của mình.[163]

Nô lệ được giải phóng

Bình đựng di cốt hỏa táng của nô lệ được giải phóng Tiberius Claudius Chryseros và hai nữ giới, có thể là vợ và con gái của ông ta.

Rome khác với các thành bang Hy Lạp ở chỗ cho phép những người nô lệ được giải phóng trở thành công dân. Sau khi được giải phóng, một nô lệ đã từng thuộc về một công dân La Mã được hưởng quyền tự do từ người chủ sở hữu và cả quyền tự do chính trị thực sự (Libertas), trong đó có cả quyền bầu cử.[164] Một nô lệ có được quyền Libertas thì được gọi là một libertus ("người được giải phóng", Liberta đối với nữ) trong mối quan hệ với chủ cũ của mình, người chủ cũ sẽ trở thành người bảo trợ của họ (Patronus): hai bên tiếp tục có những nghĩa vụ thông thường và hợp pháp với nhau. Những người nô lệ được giải phóng còn được xếp vào một tầng lớp xã hội, nói chung gọi là libertini, mặc dù các nhà văn sau đó sử dụng thuật ngữ libertus và libertinus.[165][166]

Một libertinus không có quyền nắm giữ các chức vụ công hoặc là giáo sĩ tối cao của nhà nước, nhưng người này có thể đóng một vai trò của một giáo sĩ trong tôn giáo thờ cúng hoàng đế. Ông ta cũng không thể kết hôn với một người phụ nữ từ một gia đình thuộc tầng lớp nguyên lão, cũng như bản thân ông ta không được phép đứng vào hàng ngũ nguyên lão, nhưng vào thời kì đầu của đế quốc, những nô lệ được giải phóng đã giữ vị trí chủ chốt trong bộ máy quan liêu của chính phủ nhiều tới mức Hadrianus đã phải hạn chế sự tham gia của họ bằng pháp luật.[167] Bất kỳ đứa trẻ nào được một nô lệ được giải phóng sinh ra thì đều là người tự do, với đầy đủ các quyền công dân.

Sự thăng tiến thành công của những nô lệ được giải phóng—thông qua ảnh hưởng chính trị trong việc phụng sự đế quốc hoặc thông qua sự giàu có—là một đặc trưng của xã hội đế quốc thời kỳ đầu. Sự thành công của một nhóm những nô lệ được giải phóng xuất sắc này đã được chứng thực bằng những bản khắc trên khắp đế quốc, và bởi việc sở hữu một số ngôi nhà xa hoa nhất tại Pompeii, chẳng hạn như ngôi nhà của gia đình Vettii. Tuy nhiên, những người này cũng thường bị giới quý tộc khinh miệt và gán cho biệt danh "Nouveau riche" (những người giàu có thô tục).

Việc giải phóng nô lệ thường được tổ chức trong một buổi lễ công khai, được thực hiện trước sự chứng kiến của một số quan chức nhà nước. Chủ sở hữu sẽ chạm vào đầu người nô lệ bằng một chiếc gậy và tuyên bố rằng anh (cô) ta được tự do. Tuy vậy các nghi thức đơn giản hơn đôi khi được sử dụng, chẳng hạn như chủ sở hữu tuyên bố trả tự do cho một nô lệ trước mặt bạn bè và gia đình, hoặc chỉ là một lời tuyên bố trong bữa tối gia đình. Một chiếc mũ phớt được gọi là Pileus sẽ được trao cho các nô lệ mới được giải phóng này.

Hệ thống đẳng cấp

Từ La tinh Ordo (số nhiều ordines) đề cập đến một sự phân biệt xã hội, nó được dịch sang tiếng Anh với nhiều nghĩa khác nhau là "giai cấp, tầng lớp, đẳng cấp", nhưng không có cái nào trong số đó là chính xác. Một trong những mục đích của việc điều tra dân số La Mã đó là xác định một cá nhân thuộc về Ordo nào. Hai ordines cao nhất ở Rome là tầng lớp nguyên lão và kỵ sĩ. Bên ngoài Rome, decurion, hay còn được gọi là curiales (tiếng Hy Lạp:bouleutai), là Ordo thống trị cao nhất của mỗi một thành phố riêng lẻ.

Mảnh vỡ của một chiếc quách mô tả Gordianus III và các nguyên lão (thế kỷ 3)

Viện nguyên lão của Đế quốc La Mã là một tổ chức chính trị đã tồn tại từ khi nền văn minh La Mã cổ đại ra đời. Viện nguyên lão đã nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thời kỳ Cộng hòa. Sau khi Cộng hòa La Mã sụp đổ, cán cân quyền lực theo hiến pháp đã chuyển từ " Viện nguyên lão La Mã " sang "Hoàng đế La Mã". Kể từ thời hoàng đế đầu tiên là Augustus, Hoàng đế và Viện nguyên lão về danh nghĩa là hai nhánh chính phủ đồng đẳng. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực thực sự của Viện nguyên lão là không đáng kể, vì Hoàng đế nắm giữ quyền lực thực sự. Do đó, tư cách thành viên trong Viện nguyên lão chỉ còn là ước muốn sở hữu bởi các cá nhân muốn tìm kiếm uy tín và vị thế trong xã hội, thay vì tìm kiếm quyền lực thực tế. Trong triều đại của các Hoàng đế đầu tiên, các quyền lập pháp, tư pháp và bầu cử đều được chuyển từ "Hội đồng thường dân " sang Viện nguyên lão. Tuy nhiên, do sự kiểm soát mà Hoàng đế nắm giữ đối với Viện nguyên lão là tuyệt đối, Viện nguyên lão đã trở thành một công cụ để Hoàng đế thực thi các quyền lực của mình.

"Nguyên lão", bản thân nó không phải là một chức vụ được bầu chọn ở La Mã cổ đại, mỗi một cá nhân được nhận vào Viện nguyên lão sau khi ông ta đã được bầu và giữ chức vụ là một thẩm phám hành pháp ít nhất một nhiệm kì. Một nguyên lão cũng phải đáp ứng một yêu cầu về tài sản tối thiểu là 1 triệu sestertii, vốn được xác định bởi những cuộc điều tra dân số.[168][169] Nero đã ban tặng nhiều tiền bạc cho một số nguyên lão từ các dòng họ lâu đời nhưng nay họ đã trở nên quá nghèo khổ để có thể đủ điều kiện. Không phải tất cả những người có đủ điều kiện Ordo senatorius đều được lựa chọn vào một vị trí trong Viện nguyên lão, họ được yêu cầu phải có nơi cư trú hợp pháp tại Rome. Hoàng đế thường bổ sung những vị trí còn khuyết trong hội đồng 600 thành viên bằng cách bổ nhiệm..[170][171] Con trai của một nguyên lão thuộc Ordo senatorius cũng phải hội đủ điều kiện riêng của mình thì cũng mới được chấp nhận vào Viện Nguyên Lão. Một nguyên lão có thể bị mất ghế nếu ông ta vi phạm tiêu chuẩn đạo đức: ví dụ như ông ta bị cấm kết hôn với một phụ nữ được trả tự do hoặc chiến đấu trong đấu trường[172].

Dưới triều đại của Nero, các nguyên lão chủ yếu vẫn từ Rome và các vùng đất khác của Ý cùng với một số đến từ bán đảo Iberia và miền nam nước Pháp; Những người đến từ các tỉnh nói tiếng Hy lạp ở phía Đông bắt đầu được thêm vào dưới thời Vespasianus [173] Vị nguyên lão đầu tiên tới từ tỉnh Cappadocia phía đông đã được thừa nhận dưới triều đại Marcus Aurelius.[174] Dưới thời triều đại Severus (193–235), các nguyên lão người Ý chỉ chiếm chưa đến một nửa Viện nguyên lão.[175] Vào thế kỷ thứ 3 CN, nơi ở cố định tại Rome đã không còn là điều cần thiết nữa, và những bản khắc chứng thực rằng các vị nguyên lão đã hoạt động chính trị và tỏ ra hào phóng ở quê nhà của mình (patria).[172]

Các nguyên lão đã có một vầng hào quang uy tín và là tầng lớp thống trị truyền thống của những người nổi lên thông qua honorum cursus, con đường của sự nghiệp chính trị, nhưng tầng lớp kỵ sĩ của đế quốc lại thường nắm giữ sự giàu có và nhiều quyền lực chính trị hơn. Thành viên của tầng lớp kỵ sĩ được căn cứ vào tài sản, vào những ngày đầu của Rome, equites hay kỵ sĩ đã được phân biệt bởi việc họ có khả năng tham gia lực lượng kỵ binh trong quân đội (những "kỵ binh của nhân dân"), nhưng vào thời đế quốc, việc tham gia kỵ binh đã được tách riêng[n 11] Một người được coi là một kỵ sĩ nếu như ông ta có giá trị tài sản là 400.000 sesterces và ba thế hệ trong gia đình sinh ra là người tự do thì mới đủ điều kiện.[176] Cuộc điều tra dân số vào năm 28 trước Công nguyên đã cho thấy có một số lượng lớn những người đủ điều kiện, và trong năm 14 CN, một ngàn kỵ sĩ đã được ghi nhận chỉ riêng tại CadizPadua.[n 12][177] Tầng lớp kị sĩ còn nổi lên thông qua con đường binh nghiệp (tres militiae) để nắm giữ các chức vụ quan trọng như Thái thúKiểm sát trưởng trong chính quyền đế quốc.[178][179]

Sự nổi lên của các nguyên lão và kỵ sĩ đến từ các tỉnh là một khía cạnh của biến động xã hội trong ba thế kỷ đầu của đế quốc.[180] Tầng lớp quý tộc La Mã dựa trên sự cạnh tranh và không giống với tầng lớp quý tộc châu Âu sau này, một gia đình La Mã không thể duy trì vị thế của nó chỉ đơn thuần thông qua thừa kế hoặc có được quyền sở hữu đất đai.[181][182] Được đứng vào những ordines cao hơn mang đến sự ưu đãi và đặc quyền, nhưng nó cũng đi kèm với một số trách nhiệm. Vào thời cổ đại, mỗi một thành phố đều phải trông đợi vào sự tài trợ đến từ những công dân có ảnh hưởng của nó cho các công trình công cộng, các sự kiện, và những buổi lễ (munera), thay vì là từ thuế mà vốn chủ yếu dùng cho quân đội. Để duy trì địa vị thì đòi hỏi mỗi người đều phải có những khoản chi tiêu cá nhân lớn.[183] Những Decurion đã trở nên quan trọng đối với hoạt động của các thành phố tới mức vào giai đoạn cuối của đế quốc, khi mà những thành viên của Hội đồng thành phố ngày càng trở nên ít dần, những người đã đứng vào Viện nguyên lão lại được chính quyền trung ương khuyến khích từ bỏ vị trí của mình và trở về quê hương, trong một nỗ lực để duy trì các hoạt động dân sự.[184]

Vào giai đoạn cuối của đế quốc, các dignitas ("giá trị, sự kính trọng") đi kèm với hàng ngũ nguyên lão và kỵ sĩ còn được đề cao hơn nữa bằng các tước hiệu như là vir illustris, "người nổi tiếng".[185] Danh xưng clarissimus (tiếng Hy Lạp lamprotatos) được sử dụng để chỉ rõ dignitas của một nguyên lão nào đó và gia đình của họ bao gồm cả phụ nữ.[186] "Các thứ hạng" của địa vị kỵ sĩ đã gia tăng nhanh. Những kỵ sĩ phục vụ đế quốc được xếp hạng theo mức lương (sexagenarius, 60,000 sesterce mỗi năm; centenarius, 100,000; ducenarius, 200,000). Tước hiệu eminentissimus, "xuất sắc nhất" (tiếng Hy Lạp exochôtatos) được dành cho những kỵ sĩ đã từng là Pháp quan thái thú.

Sự bất bình đẳng

Một con báo tấn công một người bị kết án tại đấu trường (tranh khảm thế kỷ 3 từ Tunisia)

Khi mà nguyên tắc về sự bình đẳng của các công dân trước pháp luật thời cộng hòa bị lu mờ dần, các đặc quyền mang tính biểu tượng và xã hội của tầng lớp thượng lưu dẫn sự phân cấp một cách không chính thức ở bên trong xã hội La Mã thành hai tầng lớp đó là những người nắm giữ quyền cao chức trọng (honestiores) và những người thuộc tầng lớp thấp kém (humiliores). Nói chung, honestiores là những thành viên của ba "giai cấp" trên, cùng với một số sĩ quan quân đội.[187][188] Việc cấp quyền công dân cho tất cả cư dân vào năm 212 dường như đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tầng lớp thượng lưu vốn có địa vị cao hơn hẳn các công dân khác, điều này đã được khẳng định đặc biệt là trong hệ thống tư pháp [188][189][190] Việc kết án phụ thuộc vào sự đánh giá của vị viên chức chủ tọa đối với "giá trị" tương xứng (dignitas) của bị cáo: một honestior có thể trả một khoản phạt khi bị kết tội đối với một tội mà có thể sẽ là một trận đòn roi dành cho một humilior.[188]

Dưới thời cộng hoà, những người tự do hiếm khi phải nhận án tử hình ngay cả trong trường hợp một vụ án ở kinh đô,[191][192] nó có thể diễn ra nhanh và tương đối ít đau đớn đối với các công dân được coi là "đáng kính trọng hơn" của đế quốc, trong khi những người bị coi là thấp kém hơn có thể phải trải qua nhiều kiểu tra tấn và đón nhận một cái chết từ từ mà trước kia vốn dành cho nô lệ, chẳng hạn như là đóng đinhxử tử bằng động vật giống như là một cảnh tượng trong đấu trường.[193] Trong giai đoạn đầu thời kỳ đế quốc, những người đã cải sang đạo Thiên Chúa có thể bị mất địa vị là honestiores của họ, đặc biệt là nếu họ từ chối thực hiện các khía cạnh tôn giáo trong nghĩa vụ công dân của mình, và do vậy họ trở thành đối tượng bị trừng phạt mà tạo ra tiền đề cho sự tử vì đạo.[188][194]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_La_Mã http://www.britannica.com/eb/article-9008022/Apoll... http://classicsunveiled.com/romeh/ http://www.euratlas.com/history_europe/europe_map_... http://ngm.nationalgeographic.com/ http://peterturchin.com/PDF/Turchin_Adams_Hall_200... http://resourcesforhistory.com http://www.unrv.com/ http://cliojournal.wikispaces.com/How+the+Jesus+Cu... http://www.princeton.edu/~pswpc/pdfs/scheidel/0406... http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/...